LỜI CHÀO

Thứ Tư, 1 tháng 12, 2010

Bình luận về tác giả- tác phẩm

ẤN TƯỢNG PHÒNG TRANH TRIỂN LÃM TRANH SƠN DẦU
CỦA HỌA SĨ CHƠN HIỀN
Ngọc Tú

Đây là lần thứ ba họa sĩ Chơn Hiền triển lãm tranh cá nhân, và lần này phòng triển lãm của anh có nhiều nét mới hơn so với hai lần trước. Nếu ở lần thứ nhất, anh tôn vinh vẻ đẹp của quê hương, đất nước và con người Bình Định; lần thứ hai, anh khai thác vẻ hoang sơ, kỳ bí của vùng đất Tây Nguyên và sự hiền hòa yên ả của làng quê Việt Nam, thì ở lần thứ ba này, 35 bức tranh sơn dầu được vẽ từ những hồi ức xa xưa và những trăn trở trước các vấn nạn hiện nay của xã hội. Xem tranh, người thưởng lãm như nhìn thấu tâm can của một người họa sĩ luôn ý thức cao về nghề và nghiệp cầm cọ của mình.

1. Họa sĩ Chơn Hiền sinh năm 1962 tại thôn Tân Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, trong một gia đình thuần nông. Tuổi thơ của anh gắn liền với tiếng sáo diều vi vu những buổi trưa hè, với làn khói lam chiều, với bờ sông, bến nước, với mùi thơm của lúa trổ đồng hay nồi cơm lúa mới nấu còn nóng hôi hổi bốc hơi thơm nức mũi. Quê hương của anh cũng chính là quê ngoại của thi sĩ nổi tiếng Xuân Diệu, mà có lần ông đã bộc bạch lòng mình rằng: “Đêm ngủ ở Tuy Phước mà không ngủ/ Thức với quê hương như thế đã vừa đâu”.
Phòng tranh triển lãm lần thứ ba này anh đặt chủ đề là Hòa sắc. Tên cho chủ đề cuộc triển lãm và việc trưng bày chuyên về chất liệu sơn dầu là những nét mới so với hai lần triển lãm trước. Đặc biệt không tìm thấy hình ảnh khỏa thân nữ, duy nhất một tác phẩm vay mượn phù điêu nghệ thuật của Chăm-pa để tôn vinh di sản văn hóa dân tộc. Điều mà người xem sẽ nhận ra là Hòa sắc trong phòng tranh khá phong phú. Sự thay đổi gam màu trong mỗi tác phẩm đã dẫn dắt người xem như đang sống từ mùa xuân sang mùa hạ, từ mùa hạ sang mùa thu và mùa thu sang mùa đông.
Trong số 35 tác phẩm sơn dầu tuyển chọn (có tác phẩm đã trưng bày tại triển lãm Khu vực V Nam miền Trung và Tây Nguyên), với nhiều kích thước lớn nhỏ, Chơn Hiền đã thể hiện thật phong phú đề tài và đa dạng cách biểu đạt. Nhưng phần lớn trong số ấy được lấy ra từ những hồi ức gắn liền với quãng đời của họa sĩ.
Những hồi ức sâu đậm về tuổi hoa niên hồn nhiên, vô tư, đã được họa sĩ đưa vào tranh một cách tự nhiên, mộc mạc, mang lại cảm giác gần gũi, chân thật với người xem. Phòng tranh lần trước ký ức về quê hương được họa sĩ phác họa đậm đặc qua hình ảnh bà mẹ quê trong chiếc áo bà ba giản dị, đứng trước hiên nhà mắt đăm đắm xa xôi như đang nhớ thương những đứa con xa xứ. Đã từ lâu, người ta gắn hình ảnh quê hương với người mẹ, như nhắc nhở người đi xa rằng: Quê hương mỗi người chỉ một/ Như là chỉ một mẹ thôi/ Quê hương nếu ai không nhớ/ Sẽ không lớn nỗi thành người. Lần này hình ảnh, bà mẹ quê được Chơn Hiền khắc họa rất đậm chất Bình Định, dễ nhận ra đó chính là một bà mẹ ở Vạn Gò Bồi, một ngôi làng nhỏ ven sông, nơi có dòng sông Gò Bồi một năm hai mùa nước: đục ngọt, mặn trong. Nơi đây còn nổi tiếng với nghề làm nước mắm truyền thống. Nhà thơ Xuân Diệu đã tự hào viết về hai đấng sinh thành của mình: “Ông cụ đồ nho lấy cô hàng nước mắm”. Có lẽ với họa sĩ Chơn Hiền, hình ảnh người mẹ quê luôn đi liền với nghề làm nước mắm nức tiếng ấy. Chẳng thế mà tác phẩm của anh không chỉ có người mẹ mà xung quanh đó còn là những lu, tỉn dùng để muối mắm. Cái khéo của người họa sĩ “lão luyện” này là ở cách chọn bối cảnh thật phù hợp - một cái sân cát, nơi mẹ ngày hai buổi đem nước mắm ra dang, những mong khi đến tay người dùng, nước mắm sẽ thơm, ngon đúng như mong muốn của mình.
Bên cạnh nỗi nhớ về mẹ, ký ức tuổi thơ như chợt vỡ òa trong tác phẩm “Nắng trong vườn”. Điểm xuyết rất nhiều sinh hoạt của thời thơ ấu ở nông thôn này là hình ảnh những chú trâu, chú bò đang ung dung gặm cỏ, những ụ rơm vàng từng là nơi diễn ra trò chơi trốn bắt, ú tim. Và ta như nghe thấy cả tiếng mèo mướp luôn miệng meo meo trong góc bếp. Nổi lên cả là hình ảnh các em bé nông thôn hồn nhiên, vô tư chơi các trò chơi dân gian, miệng nghêu ngao hát những khúc đồng dao học lõm từ người lớn. Người thưởng lãm như bắt gặp đâu đó những hình ảnh thật thân thuộc, mà bản thân từng trải qua hoặc đã chứng kiến ở một nơi nào rồi. Bức tranh nông thôn được họa sĩ dựng lên mới hiền hòa, yên ả làm sao. Ở chốn chân quê ấy, tình cảm bạn bè gắn bó thắm thiết, con người với thiên nhiên, với vật nuôi gần gũi, quyến luyến đến nhường nào. Đó là lý do vì sao ký ức đã trôi qua hàng chục năm, nhưng vẫn còn bổi hổi bồi hồi trong lòng người nghệ sĩ luôn hướng về quê hương như anh.
Ký ức đó còn thấm đẫm những mất mát đau thương trong thời chiến và hòa cùng không khí nhộn nhịp, khẩn trương dựng xây thời bình. Ở tác phẩm “Ngày mùa”, tác giả đã chọn bối cảnh là xã Phước Thắng một cách đầy ẩn ý. Vì Phước Thắng trước kia thuộc khu Đông huyện Tuy Phước, một thời bom đạn, là nơi“quê hương chín áo một quần” đi vào ca từ của nhạc sĩ Châu Đức Khánh: “Ai qua miền khu Đông đó/ Còn nhớ chăng Phước Thắng năm nào/ Chiến công biết mấy tự hào”... còn bây giờ trong tranh là hình ảnh những cánh đồng lúa chín vàng, chiếc máy tuốt lúa làm việc hết công suất, cho ra những hạt thóc mây mẩy, vàng ươm, người dân hăng say lao động sản xuất, áp dụng công nghiệp hóa đem lại năng suất cao. Vết thương chiến tranh đang dần lành lặn trên những miền quê Bình Định, đời sống người dân quê ngày càng sung túc, ấm no.
Xem tranh Chơn Hiền ta thấy hồi ức về quãng đời đã qua cứ lần lượt hiện về. Từ thời thơ ấu đến những tháng năm xa nhà, khăn gói ra miền đất thần kinh học Mỹ thuật. 8 năm có thể là quãng thời gian không dài. Nhưng nếu sống ở một vùng đất trầm mặc, cổ kính, cộng với một tâm hồn nghệ sĩ đầy nhạy cảm, thì không biết bao nhiêu kỷ niệm đọng lại trong ký ức. Họa sĩ Chơn Hiền từng tâm sự: “Cái “nghiệp” cầm cọ gắn vào tôi từ cái thuở chưa hình dung ra vẽ vời là gì. Chỉ có điều mỗi khi cầm tờ báo hay cuốn sách, việc đầu tiên tôi làm là tìm xem những hình ảnh bên trong. Về sau, tôi tập tò nhại lại nét vẽ của các họa sĩ trong báo Mực tím, Tuổi hoa... Vẽ được rồi thì thấy thích lắm. Thời gian xuống Quy Nhơn học, đường từ nhà đến trường ngang qua các tiệm vẽ ở đường Lê Hồng Phong, không lần nào tôi chịu đi thẳng. Ngang qua đó, thể nào cũng phải dừng lại năm, mười phút. Có hôm đứng sững lại, mắt chăm chăm nhìn vào những bức tranh mới hoàn thành, hay mê mải đưa mắt theo tay cầm cọ điêu luyện của người họa sĩ. Mơ ước trở thành một họa sĩ theo thời gian cứ lớn dần trong tôi”.

2. Tám năm ở Huế đã đủ để anh cảm nhận được hồn Huế, sắc màu Huế. Vẫn nét trầm mặc cổ kính bất di bất dịch nhưng Huế trong tranh Chơn Hiền pha chút lãng mạn, nhẹ nhàng, tôn vinh những di tích có giá trị ngàn đời của dân tộc. Tác phẩm “Hoài niệm mùa thu” phác họa chiếc cổng Hòa Bình (1 trong 4 chiếc cổng của khu Đại nội) trong tiết trời thu đầy nắng và lá vàng vương vãi. Chiếc cổng năm tháng rêu phong, vẫn sừng sững nhưng không thô bởi đang lung linh, duyên dáng soi bóng xuống dòng Ngự Hà* trong vắt phía trước. Bốn bên là những cây vảy ốc, sấu, phượng hoặc xà cừ rủ bóng, tạo sự mềm mại và lãng mạn cho toàn cục bức tranh. Họa sĩ cho biết, cổng Hòa Bình là nơi các sinh viên thường rủ nhau ra ngồi, để chuyện trò, để lấy cảm hứng sáng tác, và để thấy lòng thật nhẹ nhàng sau những căng thẳng, mệt mỏi.
Trong số những tác phẩm vẽ về Huế, anh dành khá nhiều cảm xúc diễn tả sự “hỉ, nộ, ái, ố” của thiên nhiên thông qua những tia nắng, hạt mưa. Sự biến đổi thất thường của thời tiết được ví von như cái thói “đỏng đảnh” của cô gái xuân thì khi có nhiều chàng trai dòm ngó. Thời gian sau khi ra trường, về công tác tại Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bình Định, rồi trở thành Hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Bình Định, có cơ hội thăm thú nhiều nơi, anh vẫn không thể quên khung cảnh từng trải qua ở Huế. Hãy thử làm một so sánh nhỏ giữa những bức tranh miêu tả cảnh mưa, nắng giữa Huế và Hội An, sẽ nhận ra họa sĩ đã dày công quan sát và cảm nhận sự thay đổi của trời đất như thế nào. Mưa Huế được anh miêu tả thật nhẹ nhàng, chỉ là những hạt mưa li ti bay bay, làm ướt mái tóc dài buông xõa bờ vai của thiếu nữ thướt tha trong chiếc áo dài tím rất Huế, làm nền gạch ở cổng phụ của Chùa Thiên Mụ loang loáng nước. Và cơn mưa ấy thật dai dẳng, chẳng lúc nào chịu thoáng qua, cứ như sợ qua nhanh sẽ chẳng còn ai nhớ đến mình.
Trong khi đó, mưa ở phố cổ Hội An thật dữ dội và mạnh mẽ. Từng làn mưa giăng mắt khắp nơi, thoáng cái đã thấy phố xá lênh láng nước. Mưa tạnh, trên tường nhà vẫn còn loang lổ những giọt nước mưa thành vệt dài. Trên mái nhà cổ kính, nước mưa đang nhỏ tong tong rồi phút chốc im bặt.
Có nhiều thời gian đi lại Hội An để công tác, họa sĩ Chơn Hiền tỏ ra thích thú với cái nắng của phố cổ. Nắng ở đây không gắt, nhưng khá tinh nghịch khi luôn tìm cách đọng lại thật lâu trên mái ngói rêu phong, mảng tường vôi vữa hoặc len qua những viên gạch vỡ để vào trong nhà. Tác phẩm “Nắng mai” thật vui tươi, khi trong nắng sớm, người thưởng lãm như thấy được cảnh mùa xuân với những dây hoa bích thanh lòa xòa buông thõng mình trên các mái nhà. Con người vui tươi chào đón nắng mới. Nắng mưa xưa nay là lẽ tự nhiên của trời đất, nhưng vào tranh của Chơn Hiền, chúng như có tính cách. Lúc dữ dội, khi dịu êm. Chính những điều đó tạo sự sống động và sức hấp dẫn riêng cho mỗi bức tranh. Và để có được sức hấp dẫn đó còn cần cả nội lực với bút pháp điêu luyện của một cây cọ nắm vững kỹ thuật sơn dầu, một chất liệu vốn du nhập từ châu Âu, được nhiều họa sĩ Việt Nam thích sử dụng nhưng ít thành công.

3. Có công bằng không, khi nói rằng làm công tác quản lý về mỹ thuật là một lợi thế của họa sĩ Chơn Hiền, vì nó giúp anh có cái nhìn toàn cục và cập nhật được nhiều thông tin về thế giới cũng như những diễn biến trong xã hội. Nhờ vậy mà mảng đề tài khai thác của anh luôn sâu, rộng và toàn diện. Có lẽ điều này ít nhiều cũng mang lại tác dụng nhất định, nhưng trên hết là tính cách của con người mới có thể duy trì lâu bền và phát huy hiệu quả.
Hãy thử nhìn lại những cuộc triển lãm của các họa sĩ ở Bình Định, nữ họa sĩ Lan Hương chọn mảng đề tài về người phụ nữ, họa sĩ Quốc Hùng theo mảng Chămpa, họa sĩ Anh Hộ theo mảng Tây Nguyên, riêng chỉ Chơn Hiền đi theo hướng đa phong cách. Bảo rằng, anh “tham lam” trong mỹ thuật thì hơi oan, chứ “cuộc sống muôn màu muôn vẻ, sao ta lại làm ngơ để chú tâm vào riêng một đề tài nào đó”, anh tâm sự vậy. Nhưng cũng vì tính tham ấy đã tạo nên một Chơn Hiền luôn lung linh sắc màu và mới lạ, không nhàm chán cũ kỹ. Bằng chứng là cả ba lần triển lãm cá nhân của anh, không lần nào giống lần nào. Với Hòa sắc, ngoài những tác phẩm đi ra từ ký ức, còn có khá nhiều “đứa con tinh thần” được thai nghén từ những trăn trở của họa sĩ trước các vấn nạn xã hội như ô nhiễm môi trường (Lời cảnh báo từ Tứ Xuyên), ô nhiễm nguồn nước (Đất ngập nước), Trái Đất nóng lên (Tiếng kêu cứu của muôn loài khi Trái Đất nóng lên), dịch cúm gia cầm (Mầm dịch cúm gà), bảo vệ di sản (Tìm về di sản, Ký ức kinh thành xưa, Chùa cầu Hội An…), chất độc da cam (Vượt lên nỗi đau)… Những tác phẩm này cho thấy tinh thần trách nhiệm của người cầm cọ, bằng cách góp sức mình tuyên truyền về những vấn đề nhức nhối, để mọi người hiểu thêm về tác hại của chúng.
Trêu Chơn Hiền rằng, anh làm công tác quản lý lâu năm, có bao giờ sợ cứng tay cầm cọ không. Anh cười hiền và đáp lại rất chân thật: “Cũng vì lo về điều đó nên tôi không bao giờ xa cây cọ cả. Trừ thời gian dành cho công việc ở cơ quan, về nhà rảnh rỗi lúc nào là tôi cầm cọ ngay. Nhất là những khi cảm xúc ngập lòng, tôi có thể vẽ miệt mài cả ngày lẫn đêm. Quan điểm của tôi vẽ là một cách giãi bày, gỡ rối tâm tư của chính mình, không nhất thiết là vẽ rồi thì phải trưng bày triển lãm. Tôi cũng như các họa sĩ khác đều giống nhau ở quan điểm là một khi đã thai nghén đứa con tinh thần thì đều tâm đắc với nó. Nhưng sau khi sinh nở xong thì lại muốn thai nghén đứa con khác. Chính sự vô lý này mà nguồn sáng tạo của người họa sĩ không bao giờ cạn. Nghệ thuật là vô hạn nhưng khả năng biểu đạt ở mỗi cá nhân thì hữu hạn, sự cảm thông, sẻ chia là điều mà tôi luôn tâm niệm và khắc ghi từ đồng nghiệp và khách thưởng lãm nghệ thuật để cầu tiến”.
Trong suốt quãng đường làm nghệ thuật, Chơn Hiền đã gặt hái rất nhiều thành công với nhiều giải thưởng lớn trong tỉnh, khu vực và Trung ương, được giới mỹ thuật cả nước biết đến và quý mến. Vậy nhưng, anh chưa bao giờ có ý định dừng lại để nghỉ ngơi, vì sáng tạo nghệ thuật, với anh là con đường không có điểm cuối, là cứ luôn phải thử sức mình để nâng cao hơn bút pháp nghệ thuật.
Khi hỏi về kế hoạch sáng tác mới, không do dự, anh trả lời ngay: “Tôi mong muốn sẽ tìm được những người bạn nghề đồng hành sẻ chia với tôi trên hành trình đi tìm cái đẹp cực kỳ gian khổ nhưng cũng đầy đam mê trong thế giới sắc màu diệu kỳ mộng ảo. Sau lần triển lãm này tôi dự định chuyển sang sáng tác chất liệu khác, đó là tranh lụa - sở trường mà tôi đã lựa chọn khi thi vào chuyên khoa mỹ thuật và đã thành công khi còn ở ngưỡng cửa đại học”.
Cầu chúc cho những gì anh tâm đắc và định hướng trong nghiệp cầm cọ của mình sẽ được thuận buồm xuôi gió, như tình yêu cánh đồng làng ngan ngát hương đưa từ lúc lúa trổ đòng đến mùa thu hoạch - luôn là hương vị thấm đẫm có cả mồ môi của nhà nông, một phần không thể thiếu yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
N.T

(*) Ngự Hà: Dòng sông nhỏ như kênh đào thuộc công trình kiến trúc thời Nguyễn dẫn nước ngoằn nghèo từ trước cổng Ngọ Môn, đến cổng Hiển Nhơn qua cổng Hòa Bình về cổng Chương Đức, chảy qua sông An Hòa và thoát ra sông Hương.

Thứ Năm, 25 tháng 11, 2010

Thơ

VIẾT GIỮA ĐÊM MƯA

Mưa đầu mùa. Nhà dột. Nước dâng
Gà ướt ổ. Đàn con chiêm chíp
Vợ chịu ướt. Con tròn giấc điệp
Ta chong đèn. Viết tiếp câu thơ


                                                  Những dòng thơ chảy giữa giấc mơ
                                                  Cô tấm nhỏ với con là một
                                                  Ta sẽ gặp ông tiên thật tốt
                                                   Vung đũa thần - nhà dột lại khô
Những dòng thơ chảy giữa đêm mưa
Rơi, rơi mãi
                     tiếng buồn nhỏ giọt
Trời còn khóc vì nhà còn dột
Đời còn buồn, thơ chẳng thể vui
                                                    Mưa ơi mưa! khóc thế vừa chưa
                                                    Hãy khe khẻ: Ru con tròn giấc
                                                    Hãy du dương: An ủi vợ hiền
                                                    Để ta thức - làm thơ chờ sáng.
                                                                                                      22/9/1997

Thứ Ba, 23 tháng 11, 2010

Thơ


EM HÃY VỀ THÔI


Em qua phố mắt còn ngái ngủ
Như vầng trăng lá úa đầu non
Tóc liễu rũ trong mưa vần vũ
Ngực chảy xuôi năm tháng mõi mòn


Mắt thâm quầng sau lớp phấn son
Em đi về như kẻ vô hồn
Nhà lắm chỗ không nơi để ở
Chồng trăm người không có con hôn


Rồi một mai dáng ngọc hon
Ai sẻ chia quạt nồng trưa hạ
Đắp thêm chăn đêm đông lạnh giá
Cài hộ em khuy áo sau lưng


Em bây giờ quá đổi dửng dưng
Mặc gió - mưa - sáng - trưa - chiều - tối
Bên gối êm trong căn phòng đợi
Say vui cùng ong bướm lả lơi…


Dừng lại em ơi, dừng lại thôi!
Về với anh làm lại cuộc đời
Hoa phai sắc nhưng hương vẫn thắm
Yêu nồng nàn tình lại lên ngôi.

Chủ Nhật, 21 tháng 11, 2010

Thơ

THUYỀN GIẤY



Em thả thuyền trôi giữa lòng sân

Người qua kẻ lại biết bao lần

Chênh chao thuyền lật em hờn dỗi

Đổ lỗi tại người đến khua chân



Ôi nhớ chao ôi mắt trong ngần

Đổ lỗi trời xanh tội phong vân

Làm sao tìm lại hình bóng cũ

Những chiếc thuyền tình trôi chông chênh



Tìm em trên cánh sóng bập bềnh

Tìm trong hoang vắng với buồn tênh

Bao mùa mưa lũ bao mùa lũ

Có những con thuyền trôi không tên



Một đời chèo chống cũng không nên

Có lẽ bây giờ em đã quên

Ngàn con thuyền giấy anh đã xếp

Biết tìm em đâu để mà đền

NGUYỄN CHƠN HIỀN

Thứ Ba, 16 tháng 11, 2010

Hoa sữa


HOA SỮA

Hoa sữa nở trắng trời đông giá
Mưa bão bùng gió vuốt ngực em
Đời vô tình hay em vội vã
Để dòng trôi quật ngã trong đêm

Anh thương em xa xót bên thềm
Lặng lẽ nở dâng hương mời mọc
Lặng lẽ trao cho đời ngà ngọc
Sống vô tư không chút ưu phiền

Anh ngắm em trong trắng dịu hiền
Ghen với phố sẻ chia hương ngát
Ghen với ai đêm nay đứng hát
Thầm nguyện cầu: hoa sữa thôi rơi

Gọi mùa

Gọi mùa
Thức chưa chim sẻ hiên nhà
Hót lên giai điệu hoang ca gọi ngày
Mấy tuần qua trời đã say
Cùng ta ngất ngưỡng tầng mây vì nàng
Xin trời chút nắng dịu dàng
Em thôi liếc dọc liếc ngang nhà người
Trao ta một nụ cười tươi
Sưởi lòng ấm lại cho đời thêm vui
Lạy trời
thôi khóc sụt sùi
Van em
 đừng có ngậm ngùi
nhìn ta
Mốt mai em có sang nhà
Đừng đem hoa quả làm quà nữa chi
Em sang
đem cả xuân thì
Hoa xinh, quả ngọt còn gì sánh hơn
Giật mình
em lại dỗi hờn
Trời còn ghen tức môi son nhạt nhòa
Tung chăn
ra ngắm vườn hoa
Trời se se lạnh xít xoa
gọi mùa
NGUYỄN CHƠN HIỀN

Chiều mưa


CHIỀU MƯA

Mưa giăng mắt em đi chiều tiễn biệt
Bản tình ca dậy khúc ru buồn
Mưa vẫn chảy dầm dề trên lá biếc
Lệ sầu thương thổn thức ngập ngừng tuôn

Trời thu xưa vầng  trăng màng muộn
Gió heo may đánh thức tình nồng
Thuyền tình ta trôi giữa dòng sông
Tình ta đẹp như Thiên tình sử

Bên Chức Nữ  tóc dài dệt lụa
Ngưu Lang say quên mất đường về
Ta cùng nhau nói chuyện sơn khê
Ôi tháng Bảy… tìm đâu ngày cũ

Chiều nay đi trong mùa mưa lũ
Đất trời say gió quật mưa giăng
Ta tìm đâu sắc tím bằng lăng
Tặng tiễn biệt người yêu lần cuối

Ta trở về một mình lầm lũi
Bản tình ca dậy khúc ru buồn
Ta giật mình mưa ghé môi hôn
Chiều tiễn biệt lòng buồn da diết.

NGUYỄN CHƠN HIỀN

Hoang dã giữa thiên nhiên

EO GIÓ NHƠN LÝ- Thắng cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ

Thả bộ qua bãi đá trứng, dọc theo vách núi, bạn dễ dàng nhận thấy những hang động mà thiên nhiên khéo kiến tạo rất đặc trưng theo dạng hàm ếch, hình vòm, lô nhô những nhũ đá  nhiều màu với nhiều hình tượng mang dáng vẻ gợi cảm, phù hợp với du khách dừng chân trú nắng, trú mưa, nghỉ ngơi sau mỗi lần vãn cảnh Eo Gió. Hướng về Tây là những hang động có nhiều chim làm tổ, trú ngụ quanh năm, cho ra những giá trị xuất khẩu.



>
Giếng Tiên (bên biển, nhưng nước lại ngọt và trong vắt)


Đến  Eo Gió bạn còn thấy một vách núi thẳng đứng có một dòng nước suối trong xanh, mát ngọt (mạch ngầm thấm từ trên cao và dồn lại một hố tròn), mỗi lần múc chỉ một bát nước, nhân dân địa phương gọi là Giếng Tiên. Sau 5 năm, nay tôi trở lại thì hố tròn đó đã được nâng cao để chứa lượng nước nhiều hơn, có thể ngâm mình hoặc khoát nước rửa mặt rất sảng khoái, hồn bay theo gió, quên hết mệt nhọc, cảm thấy yêu đời hơn.


Biển trong xanh, thấy là muốn nhảy ùm xuống

Đến tham quan Eo Gió, bạn nên chọn thời gian từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch, khi "tháng giêng động dài, tháng hai động tố" đã qua, nhường chỗ cho" tháng ba nồm rộ, tháng tư nam non" đến. Ở thời điểm này trời xanh, biển lặng, quần thể Eo Gió được che chắn bởi dãy núi hình cánh cung từ Đông sang Tây, tạo cho lòng vịnh luôn kín gió, mặt nước biển êm đềm lăn tăn  từng con sóng nhỏ vỗ nhẹ vào từng phiến đá rả rích nghe rất êm tai.


Các bạn quan sát kỹ từ trên xuống (bên trái ảnh) có hình chân dung "tráng sĩ" đang cúi mặt, vị trí người tham quan đứng là phần ngực chàng tráng sĩ.
Nếu ta nhìn ngược lại sẽ là chân dung "thiếu nữ buồn". Rất tiếc là thời điểm tôi chụp bị ngược sáng
(do máy ảnh chất lượng chưa cao) nên không thể thực hiện được. Ở góc nhìn này thì giống hệt chân dung do một tác giả điêu khắc thời tiền sử tạc vậỵ  Hai chân dung này do tôi phát hiện từ một chuyến đi thâm nhập thực tế đế sáng tác tranh, cách đây 20 năm và đặt tên cho hai chân dung (nhân dân địa phương đến giờ vẫn chưa biết).




Eo Gió hiện là thắng cảnh đẹp của thành phố Quy Nhơn có giá trị về du lịch tham quan. Bạn muốn đến Eo Gió hãy đi qua cầu Thị Nại (cây cầu vượt biển dài nhất Việt Nam, tôi sẽ đưa bạn tham quan ở bài viết khác) theo đường 639 đến ngã ba Nhơn Hội chừng 10km, rồi rẽ theo hướng tay phải đi trên đường trục đã trải nhựa (mặc sức xe ta bon bon trên dặm đường) thẳng tắp khoảng 5km nữa là đến trung tâm xã Nhơn Lý, từ đó  bạn gửi xe rồi thong thả đi bộ khoảng 200m là đến Eo Gió. Bạn cũng có thể đi theo tỉnh lộ 639 (tuyến đường ven biển) từ Tam Quan, (Hoài Nhơn) đến Phù MỸ - Phù Cát - Quy Nhơn và tỉnh lộ 640 - 635 đến tỉnh lộ 639 về hướng cầu Thị Nại tới ngã ba Nhơn Hội rồi rẽ trái cũng đến được Eo Gió.


HẦM HÔ - Nét đẹp giữa đại ngàn

Hầm Hô nằm ở thôn Phù Mỹ, xã Tây Phú, huyện Tây sơn, tỉnh Bình Định, cách thành phố Quy Nhơn khoảng 55km về phía Tây nam. Đây là một dải liên hoàn bậc thang gồm: suối, thác, hồ, sông, lạch trải dài gần 2km men theo vùng hạ lưu sông Kôn. Khởi hành từ thành phố Quy Nhơn  theo quốc lộ IA  về hướng Tây Bắc, đến quốc lộ 19 thì rẽ vào đi về phía huyện Tây Sơn, vùng đất của vương triều áo vải, từ đây đi thêm hơn 5km nữa là bạn sẽ đến vùng đất sơn thủy kỳ thú này. Đến Hầm Hô, bạn không chỉ đắm mình trong cảnh sắc núi non hùng vĩ mà còn được tận hưởng những tuyệt tác của thiên nhiên ngay dưới lòng sông.

Trên lòng sông mùa khô, đá nổi lên với nhiều hình dạng như đàn voi đang tắm..


 Vào mùa nước cạn và những ngày trời trong xanh, khi những tia ban mai rọi xuống, những khối  đá ánh lên muôn màu lóng lánh, rực rỡ như hàng vạn viên kim cương khoe mình trên làn nước trong xanh. Mỗi khối đá mang một hình  dạng riêng, chấp cánh cho trí tưởng tượng của du khách: đá lớn, đá nhỏ, khối vuông, khối tròn, có khối hình tựa như đàn voi đang tắm, có những dãy đá như đàn ngựa đang phi... Những tảng đá khổng lồ nhẳn thín này được tạo thành  bởi thời gian và  và dòng nước qua hàng triệu năm sẽ là điểm dừng chân thú vị cho các bạn sau một thời gian dài bềnh bồng trên những chiếc thuyền nhỏ.
Mùa mưa cá từ sông Kôn ngược dòng lên nguồn Đá Hàng để sinh đẻ và phải qua thác Hầm Hô mới lên được nguồn. Tương truyển rằng xưa kia, hàng trăm cá tề tựu về đây để vượt thác con nào vượt được thì hóa rồng nên thác còn có tên gọi là thác Cá Bay hay tác Vũ Môn. Ngoài ra, trứng kiến vàng là một món ăn chỉ độc nhất vào sâu trong Hầm Hô mới có. Đây vừa là thứ đặc sản hiếm có, vừa là phương thuốc chữa được nhiều bệnh tật.

Nếu muốn, bạn có thể ở lại thêm một ngày, trèo đá, vượt thác, men theo những đường mòn hoang sơ dọc theo hai bừ sông Kôn lên đến Thác Dốc, Hòn Trào, ngủ đêm tại đây để sáng hôm sau đón những tia nắng bình minh xuyên qua kẻ lá, phản chiếu trên mặt nước Hầm Hô giữa muôn vàn âm thanh ríu rít của chim muông hòa vào không gian huyền bí, gió hú mây ngàn.


Vạn Gò Bồi

Vạn Gò Bồi, nơi hạ lưu chi nhánh của sông Côn trước khi đổ ra biển, ngày xưa là biển cả (từ cửa Cách Thử lên đến Nhơn Hạnh ngày nay). Những chấn động cùng với thời gian cửa Cách Thử bị lấp, phù sa sông Côn bồi dần thành Gò Bồi - Tùng Giản và các thôn kế cận: Kim Giản, Tân Giản và Huỳnh Giản. Thị trấn Gò Bồi thuộc làng Tùng Giản xã Phước Hòa, Tuy Phước. Làng Tân Giản nằm gối đầu làng Tùng Giản thành làng ven sông từ thế kỷ 16.


Vạn Gò Bồi xưa giữ vị trí khá quan trọng trong giao lưu, kinh tế, văn hóa, du lịch của tỉnh. Di tích chùa Ông, chùa Bà (bên trục đường Gò Bồi đi Phước Thắng) vẫn lưu lại trong tâm trí của những bậc cao niên. Làng nghề làm nước mắm truyền thống đã có trên hai trăm năm. Hằng năm, khi gió nồm bắt đầu thổi, tháng 2 âm lịch là đầu mùa ghe. Thuyền buồm từ miền Nam (Phan Rang, Phan Thiết) lên vạn Gò Bồi, tháng 3 là rộ nhất. Khách lạ đến từ bên kia sông là đã ngửi mùi mắm rồi. Mùi mắm đã len vào lòng nôi cho đến khi khôn lớn, khiến Xuân Diệu bồi hồi:

Anh đã thở hơi nước mắm ngon của vạn Gò Bồi

Nên đến giờ thơ anh vẫn đậm đà thấm thía.

Khi tôi sinh ra, không còn thở hơi nước mắm ngon, không còn ghe bầu theo gió nồm đến Gò Bồi và trở về khi gió nam. Con sông quê ngày một cạn dần, ghe bầu không vào được nữa nhưng dấu ấn một thời vẫn là niềm tự hào, nhất là những người sống xa quê nghĩ về quê hương. Con sông quê bồi đắp phù sa, nuôi dưỡng tâm hồn tôi lớn lên từng ngày vậy mà đã có lúc cuộn máu đào tuôn chảy…

Tôi còn nhớ như in một sáng mùa đông năm 1966. Trời trở rét. Mưa phùn lất phất bay. Ông tôi đốt nến, thắp sáng các trang thờ, chuẩn bị gõ mõ tụng kinh theo thông lệ vào ngày rằm hằng tháng. Bỗng đâu, xuất hiện hai tên lính Nam Triều Tiên lăm lăm súng trên tay xồng xộc vào nhà. Thấy ông tôi đốt nến, hai tên lính hạ súng. Đợi ông tôi cúng xong chúng lại dí súng vào ông tôi, cả bà tôi và anh chị em tôi ra lệnh: Đi! Bà tôi chỉ kịp vơ vội chiếc khăn choàng, quấn cổ và đầu cho tôi đỡ rét. Bà cõng tôi trên lưng, bước đi trong giá rét heo may. Chúng lùa gia đình tôi đến ngôi nhà tranh vách đất, cạnh cây vông đồng. Nơi đây, chúng đã lùa về ước chừng gần sáu mươi người: ông già, bà lão, phụ nữ và trẻ em. Tuyệt đối không có một bóng dáng đàn ông thanh niên nào. Gia đình tôi đến sau cùng. Đứng ngoài khung cửa sổ, một tên rút chốt lựu đạn định ném vào chúng tôi. May thay, có một tên lính khác bị thương chỉ còn một mắt chạy đến ngồi giữa chúng tôi cản ngăn. Cuộc thảm sát bất thành, bọn chúng lùa chúng tôi đến gần chợ Gò Bồi. Trên mặt sông nước cuồn cuộn chảy có chiếc xà-lan neo sẵn. Chúng tôi lần lượt bị lùa lên xà-lan đưa qua sông. Khi xà-lan ra giữa dòng, tôi chợt thấy mặt nước sông đổi sang màu đỏ, nhìn lên xóm làng, lửa đã cất lên thành nhiều cột cao: giặc đốt làng tôi! Sau này tôi được biết, từ ngôi nhà tôi trở lên (thuộc xóm Tân Tây) bà con còn sống sót, từ ngôi nhà tôi trở xuống (thuộc xóm Tân Trung) bọn địch bắn và chôn tập thể 52 người vô tội!

Giờ đây, nhìn đám trẻ vô tư tranh nhau chạy đến gốc cây vông đồng xưa, nhặt những quả khô để làm bánh xe chơi, tôi lại nghĩ thầm: nếu lúc đó không trùng ngày rằm, ông tôi không gõ mõ, tụng kinh, tên lính bị thương ở mắt không chạy đến ngồi với mọi người thì con số 52 người bị thảm sát kia sẽ lên đến hơn 100, và chắc giờ này tôi đã không còn nữa để ghi lại câu chuyện đau lòng này.
Gò Bồi giờ đây đã đổi mới nhiều. Cầu Gò Bồi được xây lại vững chắc. Bưu điện văn hóa xã nâng cấp, làm cầu nối thông tin với mọi miền. Chợ Gò Bồi được xây dựng có mái che mưa che nắng. Du khách đến tham quan Gò Bồi chạy ô tô bon bon trên đường liên xã, liên thôn được bê tông sạch sẽ. Con đường bê tông từ cầu Gò Bồi chạy đến đê ngăn mặn khu Đông có ta-luy kiên cố. Với vành đai vững chắc, đê ngăn mặn khu Đông bảo vệ những cánh đồng cò bay thẳng cánh qua các xã Phước Sơn, Phước Hòa, Phước Thắng. Trong tương lai Gò Bồi sẽ là một điểm trong tour du lịch của tỉnh trước khi đến Núi Bà, Nhơn Lý. Đặc biệt Nhà Lưu niệm nhà thơ Xuân Diệu nằm bên bờ sông thơ mộng, sẽ là điểm dừng của những khách yêu thơ.


Nhà Lưu niện nhà thơ Xuân Diệu bên dòng sông Gò Bồi (2/3 ảnh , tính từ trái sang phải)


Dẫu chỉ là ước vọng, tôi cũng như mọi người dân nơi đây, vẫn mơ một ngày làng nghề truyền thống làm nước mắm được phục hồi. Mặc dù điều kiện làm nước mắm thật khó khăn, nhưng với tấm lòng yêu nghề, kính trọng tổ tiên, một số gia đình cố giữ nghề truyền thống của cha ông. Họ vẫn tiếp tục sản xuất, tiêu thụ trên quy mô nhỏ hoặc để biếu người thân. Người quê chúng tôi đi xa, nhớ quê, nhớ đặc sản nước mắm. Đến thăm và biếu một vài chai nước mắm ngon - nước ép, thì họ quý hơn cả những món đắt tiền.

Nước mắm nào ngon bằng nước mắm Gò Bồi

Đã thơm lại ngọt, ăn rồi nhớ lâu.

. Nguyễn Chơn Hiền